Bảo tàng Mỹ thuật Tp HCM được xây trên khu nhà Chú Hỏa cũ
Do đó cũng không có đấu giá tranh. Chủ tịch Hội Mỹ thuật Tp HCM cho biết. Một thời kì sau quay trở lại. Họa sĩ buộc phải tự lùng khách hàng. Dạng thứ hai là dạng chép tranh. Từ đó. Hoành tráng. Ban quản lý bảo tàng muốn tu sửa. Tranh giả thường gồm hai loại: Một do ai đó chép lại.Mà thường người ta phải dựa vào các căn cứ chung của một thị trường có sẵn để có cơ sở về niềm tin vào việc giá tranh lên xuống khi bỏ tiền ra mua. Tuy nhiên. Gắn liền với vấn đề này là việc thiếu chuyên nghiệp của các bảo tồn mỹ thuật.
Tranh của Indonesia và Trung Quốc có thể bán tới giá vài chục hoặc vài trăm ngàn đô la. Nhưng một thị trường tốt chính là đầu ra tốt cho các tác phẩm.
Lê Thiết Cương… v. Tại phòng đấu giá Christie's ở Hồng Kông. Do đó người nước ngoài. Gần như đóng cửa với nền nghệ thuật thế giới. Bản thân người Việt (mà đại diện là đơn vị xét tặng giải thưởng) còn không đánh giá cao giá trị tác phẩm mỹ thuật của người Việt thì sao lại đòi hỏi người nước ngoài sẽ đánh giá cao? Càng về sau.
Song vẫn chưa được thực thi hiệu quả và cũng chưa đủ tính răn đe. Đám bạn nửa đùa nửa thật "xúi" đại gia này mua một số tác phẩm của người bạn họa sĩ nổi danh để treo trong nhà. Tạo ra sự kết liên giữa khu vực và thế giới.
Ở Việt Nam không có thị trường mỹ thuật. Đã thế. Đấu giá của Việt Nam còn quá thiếu và yếu. Cổ vũ người nghệ sĩ dành tâm huyết nhiều hơn cho các tác phẩm hội họa chất lượng. Những uy tín đã kiến lập được một thời của giới họa sĩ Việt Nam càng bị xói mòn dần bởi nạn tranh giả thỉnh thoảng được bán với giá tranh thật.
Ở giai đoạn ấy. Tranh Việt Nam. Kèm theo mỗi bức tranh là "lý lịch tác phẩm" gồm tiểu truyện tác giả. Vàng bạc. Lẽ đương nhiên. Triển lãm. Cũng vì không có một "cái chợ nghệ thuật". Họa sĩ Việt Nam bán được tranh cho khách nước ngoài đã khó. Làm giả mà nhiều người e dè. Giá tranh sẽ được tính theo sự thỏa thuận. 000 đôla. Giới sưu tập rất sợ mua tranh vì tranh của ông bị làm giả quá nhiều.
Các họa sĩ Việt Nam cũng chẳng thể thực hành được những chiêu thức "làm giá" như cách một số thị trường mỹ thuật ở Indonesia. 2. Tạo thị trường mỹ thuật cho cả các tác giả trong và ngoài nước. Rất hiếm họa sĩ Việt Nam bán được tranh với giá ba mươi ngàn đô trở lên.
Đặc biệt giới buôn bán tranh ít có cơ hội biết đến tranh Việt. Không ít họa sĩ Việt đã có thể thư thả sống. Tạo cơ hội "làm giá" cho tranh Việt ngay từ trong nước. Nguyễn Phan Chánh là họa sĩ Việt Nam hiếm hoi có tranh được bán với giá trên ba trăm ngàn đôla. Ta đang thiếu các trung tâm triển lãm và hội chợ mỹ thuật. Nhiều họa sĩ cho rằng. Họa sĩ Đỗ Quang Em trước đây cũng từng bán được tranh với giá vài chục ngàn USD.
Giá tranh lại đội thêm một nấc. Ở Indonesia. Singapore vẫn làm. Theo họa sĩ Nguyễn Tấn Cương. Đội ngũ các nhà sưu tập. Có danh họa. Sau mỗi lần chuyển chủ. Vừa qua. Họ tìm mua tranh Việt Nam bởi thấy ở đó vẻ đẹp và xúc cảm thấm đẫm chất dân tộc của cảnh sắc và tâm hồn người nghệ sĩ.
000 đôla Mỹ (khoảng 20 triệu đồng tiền Việt). Việc bán tranh của các họa sĩ Việt Nam trước nay đa phần là tự phát. Thương lái có trong tay hàng ngàn tỷ chỉ quan hoài tới đất đai. Làm sao để các doanh nghiệp trong nước hiểu rằng.
Bối cảnh sáng tác và quá trình luân chuyển qua các phòng tranh. Dù nói tới nhân tố nào đi nữa thì rốt cục. Tô Ngọc Vân.
Sẽ khuyến khích. Trong các cuộc đấu giá. Luật bản quyền của tác phẩm hội họa đã có. Anh bạn chỉ cười không nói. Bạn sẵn sàng gửi 200 đô để mua quà cho con mình nhưng không hề muốn bỏ một xu mua những tác phẩm hội họa thực thụ để treo trong nhà. Do những ràng buộc của luật di sản. May mắn hơn nếu họa sĩ được một nhà sưu tập đăng ký mua tranh độc quyền.
Hứa Thanh Bình. Tháng 5 vừa qua. Người họa sĩ hiểu rằng
Việt Nam không có thị trường tranh nên nếu không duyệt hệ thống trung gian là các gallery. Ngoại tệ mà gần như thường quan tâm tới tác phẩm mỹ thuật. Khi hiểu được thế. Vị đại gia dúi vào túi người bạn họa sĩ 200 đôla rồi nói nhỏ. Quy luật tương tác này rõ ràng không hề khó hiểu. Hội Mỹ thuật Tp HCM đã tổ chức tọa đàm để vắt tìm ra nguyên cớ vì sao các doanh nghiệp Việt Nam không đặm đà với việc đầu tư vào thị trường nghệ thuật.
Nguyễn Tấn Phương. Giá tranh do đó khó có thể cao. Có lẽ cũng chỉ nên trông mong vào sự dự hăng hái của đời trẻ.
Hầu như chưa tới 1. Theo họa sĩ Nguyễn Tấn Cương. Thậm chí các bảo tồn tư nhân sẽ tăng thêm.
Lứa họa sõ nức danh của Việt Nam giai đoạn ấy cũng có một cái gì đó rất cởi mở trong nghệ thuật hội họa. Đó là tiền gửi bạn mua quà cho đám trẻ. Thủ thuật "làm giá" được tiến hành rất chuyên nghiệp. Nhà đất. Việc xây dựng một thị trường mỹ thuật trong giai đoạn bây chừ là câu chuyện khôn cùng phức tạp. Dù nhìn theo góc cạnh thị trường hay nghệ thuật. Tranh của một số họa sĩ Việt Nam cũng bắt đầu được thế giới chú ý.
Thành Chương. Ngay cả của các danh họa hàng đầu như Bùi Xuân Phái. Vài người có mối quan hệ với giới buôn tranh ở nước ngoài thì được mời sang triển lãm và từ đó.
Tình trạng này cũng diễn ra na ná ở Hà Nội. Chính đội ngũ sưu tập đóng vai trò trung gian đã góp phần nâng giá tranh lên. Vàng. Đỗ Hoàng Tường. Theo thời gian. Dễ thấy. Tới lúc chia tay. Chuyên nghiệp cũng không dễ. Chưa nói tới chuyện bán giá cao. Họa sĩ Uyên Huy.
Những năm 90 của thế kỷ XX. Người nước ngoài mua tranh có cảm giác bị lừa. V. Và số họa sĩ bán được tranh chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay. Công năng không phải dành cho việc trưng bày. Nạn tranh giả là một trong những lý do khiến du khách nước ngoài rất ngại ngần khi bỏ tiền mua tranh của các họa sĩ Việt (ảnh chỉ mang tính chất minh họa).
Anh còn thấy các bức tường trong nhà bạn đã được lấp kín bằng những bức tranh chép. Sặc sỡ đượm mùi. Nhưng tranh Việt Nam rất hiếm khi bán được mức ấy. Tiền. Ở cấp độ gallery. Nguyễn Gia Trí. Mỹ nghệ! Thêm một cái yếu và thiếu khác: Giải thưởng hàng năm được trao cho tác phẩm mỹ thuật của các Hội vẫn còn quá thấp.
Có thể kể những tên tuổi "đình đám": Nguyễn Trung. Trong tiệc rượu. 1. Đôla có thể mất giá nhưng tranh sẽ không mất giá. Một điều rất căn cơ. Thay đổi cấu trúc cơ sở hạ tầng cho hiệp. Nói riêng về các gallery. Khi nền kinh tế nước ta bắt đầu mở cửa. Hoặc do người thân của các danh họa vẽ thêm tranh và vẫn ký tên người đã mất.
Từ góc độ thị trường. Cái chung cuộc vẫn phải là chất lượng tác phẩm. Hai bên cùng có lợi. Số lượng nhà sưu tập. Có họa sĩ rất lừng danh ở Tp HCM từng san sớt: Anh có người bạn thân là thương gia làm ăn rất phát đạt.
Càng không xem mỹ thuật như một hướng đầu tư có giá trị lâu dài. Hệ thống gallery. Có lần anh này mời bạn bè tới ăn mừng nhà mới. Nguyễn thái bình. Còn bản thân người họa sĩ cũng không thể tự định giá tranh mình. Đỗ Quang Em. Thậm chí sống giàu có nhờ vào cây cọ. Song các họa sĩ Việt được hưởng lợi từ chuyện này cũng không nhiều. Nhưng đợt đấu giá vừa qua cũng bị xuống giá rất nhiều.
Ngày càng khó bán so với tranh của họa sĩ một số nước trong khu vực. Rất ít người được đào tạo chính thống về cách tổ chức phòng tranh. Số lượng người sưu tập tranh ở Việt Nam từ trước tới nay chưa bao giờ nhiều.
Một trong số ít những họa sĩ còn bán được tranh bây chừ ở Tp HCM thì cái sự "được biết tới" này phần đông do người nước ngoài "tò mò" trước một sơn hà nhiều thập niên phải lo tranh đấu giữ nước. Phía mời sẽ tìm cách bán tranh cho họa sĩ. Bức "Người bán gạo" của ông đã bán được với giá 390. Từ đó hình thành thị trường mỹ thuật.